Những điểm chính trong hoạt động kiểm tra chất lượng nước trong nhà máy xử lý nước thải phần mười một

56. Có những phương pháp đo lường xăng dầu nào?
Dầu mỏ là một hỗn hợp phức tạp bao gồm ankan, xycloalkan, hydrocacbon thơm, hydrocacbon không bão hòa và một lượng nhỏ lưu huỳnh và oxit nitơ. Trong các tiêu chuẩn chất lượng nước, dầu mỏ được quy định là chất chỉ thị độc tính và chất chỉ thị giác quan của con người để bảo vệ đời sống thủy sinh, vì các chất dầu mỏ có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống thủy sinh. Khi hàm lượng dầu mỏ trong nước từ 0,01 đến 0,1 mg/L sẽ cản trở quá trình kiếm ăn và sinh sản của thủy sinh vật. Vì vậy, tiêu chuẩn chất lượng nước thủy sản của nước tôi không được vượt quá 0,05 mg/L, tiêu chuẩn nước tưới tiêu nông nghiệp không được vượt quá 5,0 mg/L và tiêu chuẩn xả nước thải toàn diện thứ cấp không được vượt quá 10 mg/L. Nói chung, hàm lượng dầu mỏ trong nước thải vào bể sục khí không thể vượt quá 50mg/L.
Do thành phần phức tạp và tính chất rất khác nhau của dầu mỏ, cùng với những hạn chế trong phương pháp phân tích nên khó có thể thiết lập một tiêu chuẩn thống nhất áp dụng cho nhiều thành phần khác nhau. Khi hàm lượng dầu trong nước >10 mg/L, có thể sử dụng phương pháp trọng lượng để xác định. Nhược điểm là hoạt động phức tạp và dầu nhẹ dễ bị mất khi ete dầu mỏ bay hơi và khô. Khi hàm lượng dầu trong nước là 0,05 ~ 10 mg/L, có thể sử dụng phép đo quang phổ hồng ngoại không phân tán, quang phổ hồng ngoại và quang phổ tử ngoại. Phép đo quang hồng ngoại không phân tán và phép đo quang hồng ngoại là tiêu chuẩn quốc gia để thử nghiệm dầu khí. (GB/T16488-1996). Phương pháp quang phổ UV chủ yếu được sử dụng để phân tích các hydrocacbon thơm có mùi và độc hại. Nó đề cập đến các chất có thể được chiết xuất bằng ete dầu mỏ và có đặc tính hấp thụ ở các bước sóng cụ thể. Nó không bao gồm tất cả các loại dầu mỏ.
57. Các biện pháp phòng ngừa khi đo dầu là gì?
Chất chiết được sử dụng bằng phép đo quang hồng ngoại phân tán và phép đo quang hồng ngoại là cacbon tetraclorua hoặc trichlorotrifluoroethane, và chất chiết được sử dụng bằng phương pháp đo trọng lượng và quang phổ tia cực tím là ete dầu mỏ. Các chất chiết này độc hại và phải được xử lý cẩn thận và trong tủ hút.
Dầu tiêu chuẩn phải là ete dầu mỏ hoặc chiết xuất cacbon tetraclorua từ nước thải cần theo dõi. Đôi khi cũng có thể sử dụng các sản phẩm dầu tiêu chuẩn được công nhận khác hoặc có thể sử dụng n-hexadecan, isooctan và benzen theo tỷ lệ 65:25:10. Được xây dựng theo tỷ lệ khối lượng. Ether dầu mỏ dùng để chiết dầu tiêu chuẩn, vẽ đường chuẩn dầu và đo mẫu nước thải phải có cùng số lô, nếu không sẽ xảy ra sai số hệ thống do các giá trị trắng khác nhau.
Cần lấy mẫu riêng khi đo dầu. Thông thường, chai thủy tinh miệng rộng được sử dụng làm chai lấy mẫu. Không được sử dụng chai nhựa, mẫu nước không được đổ đầy chai lấy mẫu và phải có khe hở trên chai. Nếu mẫu nước không thể phân tích trong cùng ngày, có thể thêm axit clohydric hoặc axit sulfuric để tạo giá trị pH.<2 to inhibit the growth of microorganisms, and stored in a 4oc refrigerator. piston on separatory funnel cannot be coated with oily grease such as vaseline.
58. Các chỉ số chất lượng nước đối với kim loại nặng thông thường và các chất vô cơ độc hại, phi kim loại là gì?
Các kim loại nặng thông thường và các chất vô cơ độc hại, có hại trong nước chủ yếu bao gồm thủy ngân, cadmium, crom, chì và sunfua, xyanua, florua, asen, selen, v.v. Các chỉ tiêu chất lượng nước này đều độc hại để đảm bảo sức khỏe con người hoặc bảo vệ đời sống thủy sinh . các chỉ số vật lý Tiêu chuẩn xả nước thải tổng hợp quốc gia (GB 8978-1996) có quy định nghiêm ngặt về chỉ tiêu xả nước thải có chứa các chất này.
Đối với các nhà máy xử lý nước thải mà nước đầu vào có chứa các chất này thì hàm lượng các chất độc hại này trong nước đầu vào và nước thải ra từ bể lắng thứ cấp phải được kiểm tra cẩn thận để đảm bảo đạt tiêu chuẩn xả thải. Khi phát hiện nước đầu vào hoặc nước thải vượt quá tiêu chuẩn, cần thực hiện ngay các biện pháp để đảm bảo nước thải đạt tiêu chuẩn càng sớm càng tốt bằng cách tăng cường xử lý sơ bộ và điều chỉnh các thông số vận hành xử lý nước thải. Trong xử lý nước thải thứ cấp thông thường, sunfua và xyanua là hai chỉ số chất lượng nước phổ biến nhất của các chất vô cơ độc hại và có hại.
59. Trong nước có bao nhiêu dạng sunfua?
Các dạng lưu huỳnh chính tồn tại trong nước là sunfat, sunfua và sunfua hữu cơ. Trong đó sunfua có 3 dạng: H2S, HS- và S2-. Lượng của mỗi dạng có liên quan đến giá trị pH của nước. Trong điều kiện axit Khi giá trị pH lớn hơn 8, nó chủ yếu tồn tại ở dạng H2S. Khi giá trị pH lớn hơn 8, nó chủ yếu tồn tại ở dạng HS- và S2-. Việc phát hiện sunfua trong nước thường cho thấy nước đã bị ô nhiễm. Nước thải từ một số ngành công nghiệp, đặc biệt là lọc dầu, thường chứa một lượng sunfua nhất định. Dưới tác dụng của vi khuẩn kỵ khí, sunfat trong nước cũng có thể bị khử thành sunfua.
Hàm lượng sunfua trong nước thải từ các bộ phận liên quan của hệ thống xử lý nước thải phải được phân tích cẩn thận để ngăn ngừa ngộ độc hydro sunfua. Đặc biệt đối với nước đầu vào và đầu ra của bộ phận khử lưu huỳnh tước, hàm lượng sunfua phản ánh trực tiếp tác dụng của bộ phận tước và là chỉ số kiểm soát. Để ngăn chặn lượng sunfua quá mức trong các vùng nước tự nhiên, tiêu chuẩn xả nước thải tổng hợp quốc gia quy định hàm lượng sunfua không được vượt quá 1,0mg/L. Khi sử dụng phương pháp xử lý sinh học thứ cấp hiếu khí đối với nước thải, nếu nồng độ sunfua trong nước đầu vào dưới 20mg/L thì hoạt tính Nếu hiệu suất bùn tốt và lượng bùn còn lại được thải ra kịp thời, hàm lượng sunfua trong nước bể lắng thứ cấp có thể đạt tiêu chuẩn. Hàm lượng sunfua trong nước thải từ bể lắng thứ cấp phải được theo dõi thường xuyên để quan sát xem nước thải có đáp ứng tiêu chuẩn hay không và xác định cách điều chỉnh các thông số vận hành.
60. Có bao nhiêu phương pháp thường được sử dụng để phát hiện hàm lượng sunfua trong nước?
Các phương pháp thường được sử dụng để phát hiện hàm lượng sunfua trong nước bao gồm quang phổ xanh methylen, quang phổ p-amino N, N dimethylaniline, phương pháp đo iod, phương pháp điện cực ion, v.v. Trong số đó, phương pháp xác định sunfua tiêu chuẩn quốc gia là quang phổ xanh methylen. Phép đo quang (GB/T16489-1996) và phép đo quang phổ màu trực tiếp (GB/T17133-1997). Giới hạn phát hiện của hai phương pháp này lần lượt là 0,005mg/L và 0,004mg/l. Khi mẫu nước không được pha loãng, trong trường hợp này, nồng độ phát hiện cao nhất lần lượt là 0,7mg/L và 25mg/L. Khoảng nồng độ sunfua được đo bằng phương pháp quang phổ p-amino N,N dimethylaniline (CJ/T60–1999) là 0,05~0,8 mg/L. Vì vậy, phương pháp đo quang phổ trên chỉ phù hợp để phát hiện hàm lượng sunfua thấp. Chảy nước. Khi nồng độ sunfua trong nước thải cao, có thể sử dụng phương pháp đo iốt (HJ/T60-2000 và CJ/T60–1999). Phạm vi nồng độ phát hiện của phương pháp đo iốt là 1 ~ 200mg/L.
Khi mẫu nước bị đục, có màu hoặc chứa các chất khử như SO32-, S2O32-, mercaptans và thioether sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến phép đo và cần phải tách trước để loại bỏ nhiễu. Phương pháp tách trước thường được sử dụng là axit hóa-tước bỏ-hấp thụ. Pháp luật. Nguyên tắc là sau khi mẫu nước được axit hóa, sunfua tồn tại ở trạng thái phân tử H2S trong dung dịch axit và được thổi ra ngoài bằng khí, sau đó được chất lỏng hấp thụ hấp thụ rồi đo.
Phương pháp cụ thể trước tiên là thêm EDTA vào mẫu nước để tạo phức và ổn định hầu hết các ion kim loại (như Cu2+, Hg2+, Ag+, Fe3+) để tránh nhiễu do phản ứng giữa các ion kim loại này và ion sunfua gây ra; cũng thêm một lượng hydroxylamine hydrochloride thích hợp, có thể ngăn chặn hiệu quả các phản ứng oxy hóa khử giữa các chất oxy hóa và sunfua trong mẫu nước. Khi thổi H2S ra khỏi nước, tốc độ thu hồi khi khuấy cao hơn đáng kể so với khi không khuấy. Tốc độ thu hồi sunfua có thể đạt 100% khi khuấy trong 15 phút. Khi thời gian tước khi khuấy vượt quá 20 phút, tốc độ thu hồi sẽ giảm nhẹ. Vì vậy, việc tước thường được thực hiện bằng cách khuấy và thời gian tước là 20 phút. Khi nhiệt độ nước tắm là 35-55oC, tỷ lệ thu hồi sunfua có thể đạt 100%. Khi nhiệt độ bể nước trên 65oC, tốc độ thu hồi sunfua giảm nhẹ. Vì vậy, nhiệt độ tắm nước tối ưu thường được chọn là 35 đến 55oC.
61. Các biện pháp phòng ngừa khác khi xác định sunfua là gì?
⑴ Do tính không ổn định của sunfua trong nước nên khi lấy mẫu nước, điểm lấy mẫu không được sục khí hoặc khuấy trộn mạnh. Sau khi thu thập, dung dịch kẽm axetat phải được thêm vào kịp thời để tạo thành huyền phù kẽm sunfua. Khi mẫu nước có tính axit, nên thêm dung dịch kiềm để ngăn chặn sự giải phóng hydro sunfua. Khi mẫu nước đầy, nên đậy nút chai và gửi đến phòng thí nghiệm để phân tích càng sớm càng tốt.
⑵ Cho dù sử dụng phương pháp phân tích nào, mẫu nước đều phải được xử lý trước để loại bỏ nhiễu và cải thiện mức độ phát hiện. Sự có mặt của chất màu, chất rắn lơ lửng, SO32-, S2O32-, mercaptan, thioether và các chất khử khác sẽ ảnh hưởng đến kết quả phân tích. Các phương pháp loại bỏ sự can thiệp của các chất này có thể sử dụng phương pháp tách kết tủa, tách bằng thổi khí, trao đổi ion, v.v..
⑶ Nước dùng để pha loãng và pha chế dung dịch thuốc thử không được chứa các ion kim loại nặng như Cu2+ và Hg2+, nếu không kết quả phân tích sẽ thấp hơn do tạo ra sunfua không tan trong axit. Vì vậy, không sử dụng nước cất thu được từ máy chưng cất kim loại. Tốt nhất là sử dụng nước khử ion. Hoặc nước cất từ ​​bình thủy tinh.
⑷Tương tự, một lượng nhỏ kim loại nặng có trong dung dịch hấp thụ kẽm axetat cũng sẽ ảnh hưởng đến kết quả đo. Bạn có thể thêm từng giọt 1mL dung dịch natri sunfua 0,05mol/L mới chuẩn bị vào 1L dung dịch hấp thụ kẽm axetat trong điều kiện lắc vừa đủ và để qua đêm. , sau đó xoay và lắc, sau đó lọc bằng giấy lọc định lượng có kết cấu mịn và loại bỏ dịch lọc. Điều này có thể loại bỏ sự can thiệp của dấu vết kim loại nặng trong dung dịch hấp thụ.
⑸Dung dịch chuẩn natri sunfua cực kỳ không ổn định. Nồng độ càng thấp thì càng dễ thay đổi. Nó phải được chuẩn bị và hiệu chỉnh ngay trước khi sử dụng. Bề mặt của tinh thể natri sunfua dùng để chuẩn bị dung dịch chuẩn thường chứa sulfite, gây ra sai số. Tốt nhất nên sử dụng các hạt tinh thể lớn và rửa nhanh bằng nước để loại bỏ sunfit trước khi cân.


Thời gian đăng: Dec-04-2023