Nitơ là nguyên tố quan trọng có thể tồn tại ở nhiều dạng khác nhau trong nước và đất trong tự nhiên. Hôm nay chúng ta sẽ nói về các khái niệm về nitơ tổng số, nitơ amoniac, nitơ nitrat, nitơ nitrit và nitơ Kjeldahl. Tổng nitơ (TN) là chỉ số thường được sử dụng để đo tổng lượng tất cả các chất nitơ có trong nước. Nó bao gồm nitơ amoniac, nitơ nitrat, nitơ nitrit và một số chất nitơ khác như nitrat và nitrat. Nitơ amoniac (NH3-N) đề cập đến nồng độ kết hợp của amoniac (NH3) và oxit amoniac (NH4+). Nó là nitơ có tính kiềm yếu và có thể được tạo ra từ các phản ứng sinh học và hóa học trong nước. Nitơ nitrat (NO3-N) dùng để chỉ nồng độ nitrat (NO3 -). Nó là nitơ có tính axit mạnh và là dạng nitơ chính. Nó có thể bắt nguồn từ hoạt động sinh học của nước từ nitơ amoniac và nitơ hữu cơ trong nước. Nitơ nitrit (NO2-N) dùng để chỉ nồng độ nitrit (NO2 -). Nó là nitơ có tính axit yếu và là tiền chất của nitơ nitrat, có thể thu được thông qua các phản ứng sinh học và hóa học trong nước. Nitơ Kjeldahl (Kjeldahl-N) dùng để chỉ tổng lượng oxit amoniac (NH4+) và nitơ hữu cơ (Norg). Nó là nitơ amoniac có thể thu được thông qua các phản ứng sinh học và hóa học trong nước. Nitơ trong nước là thành phần quan trọng có thể ảnh hưởng đến chất lượng nước, điều kiện sinh thái và sự sinh trưởng, phát triển của sinh vật dưới nước. Vì vậy, điều quan trọng là phải theo dõi và kiểm soát tổng lượng nitơ, nitơ amoniac, nitơ nitrat, nitơ nitrit và nitơ Kjeldahl trong nước. Hàm lượng nitơ tổng số là chỉ tiêu quan trọng để đo tổng lượng chất nitơ có trong nước. Nói chung, tổng hàm lượng nitơ trong nước phải nằm trong một phạm vi nhất định. Hàm lượng quá cao hoặc quá thấp sẽ ảnh hưởng đến chất lượng nước trong nước. Ngoài ra, nitơ amoniac, nitơ nitrat, nitơ nitrit và nitơ Kjeldahl cũng là những chỉ số quan trọng để phát hiện các chất nitơ trong nước. Nội dung của họ cũng phải nằm trong một phạm vi nhất định. Hàm lượng quá cao hoặc quá thấp sẽ ảnh hưởng đến chất lượng nước trong nước. Là một nguyên tố dinh dưỡng, nitơ được đưa vào hồ và tác động trực tiếp nhất là hiện tượng phú dưỡng:
1) Khi các hồ ở trạng thái tự nhiên, về cơ bản chúng ở trạng thái thiểu dưỡng hoặc trung dưỡng. Sau khi nhận được chất dinh dưỡng ngoại sinh đầu vào, mức độ dinh dưỡng của thủy vực tăng lên, điều này có thể thúc đẩy sự phát triển của rễ và thân của thảm thực vật thủy sinh trong một phạm vi nhất định và việc làm giàu chất dinh dưỡng là không rõ ràng.
2) Với việc cung cấp liên tục các chất dinh dưỡng như nitơ, tốc độ tiêu thụ chất dinh dưỡng của thảm thực vật thủy sinh thấp hơn tốc độ tăng nitơ. Sự gia tăng chất dinh dưỡng khiến tảo sinh sôi với số lượng lớn, làm giảm dần độ trong suốt của vùng nước, đồng thời sự phát triển của thảm thực vật thủy sinh bị hạn chế cho đến khi biến mất. Lúc này, hồ chuyển từ hồ cỏ sang hồ tảo, hồ có đặc điểm phú dưỡng.
Hiện nay, nhiều quốc gia có quy định chặt chẽ về hàm lượng các chất nitơ như nitơ tổng số, nitơ amoniac, nitơ nitrat, nitơ nitrit và nitơ Kjeldahl trong các vùng nước. Nếu vi phạm các quy định sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng nước và môi trường sinh thái của vùng nước. Vì vậy, mọi người cần chú ý đến việc theo dõi, kiểm soát chất nitơ trong các vùng nước để đảm bảo chất lượng nước của các vùng nước đạt tiêu chuẩn quốc gia.
Tóm lại,tổng nitơ, nitơ amoniac, nitơ nitrat, nitơ nitrit và nitơ Kjeldahllà những chỉ tiêu quan trọng của chất nitơ trong các vùng nước. Hàm lượng của chúng là một chỉ số quan trọng về chất lượng nước, việc giám sát và kiểm soát là rất quan trọng. Chỉ thông qua việc giám sát và kiểm soát hợp lý các chất nitơ trong các vùng nước, chúng ta mới có thể đảm bảo chất lượng nước đạt tiêu chuẩn và bảo vệ sức khỏe của vùng nước.
Thời gian đăng: Jul-05-2024